Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đồng thời, cũng đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Việc đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng không chỉ là đòi hỏi tất yếu mà còn là mục tiêu trọng tâm, mang tính quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển toàn diện kinh tế-xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã được sắp xếp, tinh gọn và đạt được một số kết quả nổi bật. Về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống hành chính nhà nước: Đối với tổ chức hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ: đã giảm được 17 tổng cục và tổ chức tương đương tổng cục, giảm 10 cục thuộc tổng cục và thuộc bộ, giảm 144 vụ/ban thuộc tổng cục và thuộc bộ, cơ bản giảm phòng trong vụ (không tính Bộ Công an và Bộ Quốc phòng). Đối với địa phương: đã giảm được 13 sở và tương đương, giảm 2.590 phòng và tương đương thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Về đơn vị sự nghiệp công lập: đến hết năm 2023 còn 46.540 đơn vị (giảm 8.149 đơn vị, tương ứng 15,13%). Về sắp xếp đơn vị hành chính: giai đoạn 2019 - 2021 có 45/45 tỉnh, thành phố thuộc diện sắp xếp đã giảm 8 đơn vị hành chính cấp huyện, 561 đơn vị hành chính cấp xã; giai đoạn 2023 - 2025, có 51/51 tỉnh, thành phố thuộc diện sắp xếp, đã thực hiện giảm 9 đơn vị hành chính cấp huyện, 563 đơn vị hành chính cấp xã.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, thực tiễn cho thấy việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ và tổng thể. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đầu mối; phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn vẫn còn trùng lắp, chồng chéo; phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, thiếu hợp lý; việc sắp xếp chưa thực sự gắn với xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Hạn chế, bất cập đó đã kìm hãm sự phát triển, giảm tính chủ động, sáng tạo, gây cản trở, thậm chí tạo điểm nghẽn, ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của đất nước.
Trong bài viết “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Việc tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền và khẳng định sức chiến đấu của Đảng, không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng mà còn là sứ mệnh cao cả để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, phồn vinh, hạnh phúc.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền giúp Đảng thực hiện tốt vai trò định hướng chiến lược và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền không chỉ thể hiện ở việc xây dựng các chủ trương, đường lối đúng đắn mà còn ở khả năng tổ chức thực hiện hiệu quả, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, nhân dân và mọi chủ thể trong xã hội. Điều này đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo, tránh bảo thủ, trì trệ và sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc những mô hình quản trị hiện đại phù hợp thực tiễn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra yêu cầu “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Tiếp đó, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục bổ sung nhiều điểm mới và quan trọng, trong đó có thuật ngữ “năng lực cầm quyền” vào mục tiêu tổng quát “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”; từ đó, nêu lên quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”.
Sức chiến đấu của Đảng là yếu tố cốt lõi để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền trước các thách thức nội tại và ngoại lực. Đảng không chỉ phải đối mặt với nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ mà còn phải đứng vững trước sự chống phá từ các thế lực thù địch. Sức chiến đấu mạnh mẽ được thể hiện ở sự đoàn kết nội bộ, tính kỷ luật cao và khả năng hành động đồng bộ của từng tổ chức đảng. Mỗi đảng viên, cán bộ cần không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân.
Để hiện thực hóa tinh thần “Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả” - kim chỉ nam cho việc cải cách và đổi mới năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức của Đảng và Nhà nước, chúng ta cần làm rõ nội dung trọng tâm và áp dụng các phương pháp cụ thể trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện. Đây không chỉ là một yêu cầu về cải cách bộ máy, mà còn là nguyên tắc cốt lõi nhằm tối ưu hóa tổ chức bộ máy, bảo đảm sự gọn nhẹ nhưng vẫn giữ được sức mạnh toàn diện, từ đó nâng cao hiệu quả trong mọi hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước để bước vào kỷ nguyên mới.
Tinh thần “Tinh-Gọn” đề cao việc tổ chức bộ máy một cách khoa học, hợp lý, loại bỏ những đầu mối, tầng nấc trung gian không cần thiết, giảm thiểu tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Một tổ chức tinh gọn giúp cải thiện khả năng ra quyết định, giảm bớt thủ tục hành chính, đồng thời tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đối với hệ thống chính trị, tinh gọn không chỉ là sắp xếp lại cơ cấu mà còn là cải cách mạnh mẽ về tư duy và phương pháp làm việc. Bộ máy tinh gọn tạo điều kiện để các cấp lãnh đạo tập trung vào nhiệm vụ chiến lược, thúc đẩy sự sáng tạo, hiệu quả trong chỉ đạo và thực thi.
Tinh thần “Mạnh” chú trọng sức mạnh nội tại của bộ máy tổ chức, được xây dựng từ chất lượng của đội ngũ cán bộ và sự thống nhất trong hành động. Một tổ chức mạnh mẽ phải có đội ngũ nhân sự tinh hoa, được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Sự mạnh mẽ còn thể hiện ở khả năng thích ứng nhanh trước các thay đổi, giải quyết hiệu quả các thách thức và tận dụng tốt các cơ hội phát triển. Đây là yếu tố quan trọng để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự ổn định và phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Tinh thần “Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả” hướng đến mục tiêu cao nhất là mang lại giá trị thực tiễn rõ rệt, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế-xã hội và cải thiện toàn diện chất lượng đời sống nhân dân. Hiệu năng thể hiện ở khả năng vận hành trơn tru, nhịp nhàng của hệ thống, tối ưu hóa các nguồn lực để đạt kết quả tốt nhất; hiệu lực là khả năng thực thi các quyết định một cách khoa học, nhanh chóng, đúng mục tiêu; còn hiệu quả chính là thước đo kết quả thực tế đạt được. Để hiện thực hóa các giá trị này, cần áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, đổi mới công tác giám sát và kiểm tra, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo và không ngừng cải tiến quy trình hoạt động của tổ chức.
Những đòi hỏi, thách thức từ thực tiễn
Trải qua hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền đối với hệ thống chính trị mà còn đóng vai trò trung tâm trong việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, cùng với những khó khăn, thách thức nội tại đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay
Trong những năm qua, tổ chức bộ máy của Đảng đã có những cải cách mạnh mẽ hướng tới tinh gọn, hiệu quả, khoa học hơn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước phù hợp tình hình thực tiễn. Các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương được sắp xếp lại theo hướng giảm bớt tầng nấc trung gian, loại bỏ các khâu chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, kịp thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy. Tuy nhiên, một số cơ quan còn cồng kềnh, hoạt động chồng chéo, làm giảm hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Tại một số địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan Đảng và chính quyền chưa thật sự chặt chẽ, dẫn đến tình trạng xử lý công việc chậm trễ, không đồng bộ, vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa nắm bắt được yêu cầu đổi mới và hội nhập, thậm chí còn có trường hợp vi phạm đạo đức, pháp luật, làm giảm uy tín của Đảng.
Thứ hai, về hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay
Hiệu quả lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nét qua những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã và đang duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực lan tỏa trong xã hội. Hàng loạt vụ án lớn đã được xử lý nghiêm minh, nhiều cán bộ cấp cao bị kỷ luật, truy tố, cho thấy quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần sớm được khắc phục để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng: Một số chủ trương, nghị quyết quan trọng của Đảng triển khai xuống cơ sở còn chậm, thiếu sự đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong khâu tổ chức thực hiện. Việc xây dựng chính sách ở một số lĩnh vực chưa thật sự bám sát thực tiễn, gây ra tình trạng lãng phí nguồn lực hoặc không đạt được kết quả như kỳ vọng.
Thứ ba, về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền, là lực lượng duy nhất tiếp nối vai trò và sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc dự báo và ứng phó với các tình huống phức tạp, đặc biệt là những vấn đề về an ninh phi truyền thống, còn gặp nhiều khó khăn; một số nơi vẫn còn tồn tại tình trạng xa rời quần chúng, thiếu lắng nghe ý kiến từ nhân dân, dẫn đến sự giảm sút niềm tin ở một bộ phận người dân.
Ngoài ra, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đang trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Việc rèn luyện đạo đức, tư tưởng và năng lực chuyên môn cho cán bộ cần được quan tâm hơn nữa, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang tích lũy đủ thế và lực khẩn trương bước vào kỷ nguyên mới./.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã được sắp xếp, tinh gọn và đạt được một số kết quả nổi bật. Về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống hành chính nhà nước: Đối với tổ chức hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ: đã giảm được 17 tổng cục và tổ chức tương đương tổng cục, giảm 10 cục thuộc tổng cục và thuộc bộ, giảm 144 vụ/ban thuộc tổng cục và thuộc bộ, cơ bản giảm phòng trong vụ (không tính Bộ Công an và Bộ Quốc phòng). Đối với địa phương: đã giảm được 13 sở và tương đương, giảm 2.590 phòng và tương đương thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Về đơn vị sự nghiệp công lập: đến hết năm 2023 còn 46.540 đơn vị (giảm 8.149 đơn vị, tương ứng 15,13%). Về sắp xếp đơn vị hành chính: giai đoạn 2019 - 2021 có 45/45 tỉnh, thành phố thuộc diện sắp xếp đã giảm 8 đơn vị hành chính cấp huyện, 561 đơn vị hành chính cấp xã; giai đoạn 2023 - 2025, có 51/51 tỉnh, thành phố thuộc diện sắp xếp, đã thực hiện giảm 9 đơn vị hành chính cấp huyện, 563 đơn vị hành chính cấp xã.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, thực tiễn cho thấy việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ và tổng thể. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đầu mối; phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn vẫn còn trùng lắp, chồng chéo; phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, thiếu hợp lý; việc sắp xếp chưa thực sự gắn với xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Hạn chế, bất cập đó đã kìm hãm sự phát triển, giảm tính chủ động, sáng tạo, gây cản trở, thậm chí tạo điểm nghẽn, ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của đất nước.
Trong bài viết “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Việc tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền và khẳng định sức chiến đấu của Đảng, không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng mà còn là sứ mệnh cao cả để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, phồn vinh, hạnh phúc.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Khẳng định sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của ĐảngNâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền giúp Đảng thực hiện tốt vai trò định hướng chiến lược và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền không chỉ thể hiện ở việc xây dựng các chủ trương, đường lối đúng đắn mà còn ở khả năng tổ chức thực hiện hiệu quả, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, nhân dân và mọi chủ thể trong xã hội. Điều này đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo, tránh bảo thủ, trì trệ và sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc những mô hình quản trị hiện đại phù hợp thực tiễn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra yêu cầu “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Tiếp đó, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục bổ sung nhiều điểm mới và quan trọng, trong đó có thuật ngữ “năng lực cầm quyền” vào mục tiêu tổng quát “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”; từ đó, nêu lên quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”.
Sức chiến đấu của Đảng là yếu tố cốt lõi để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền trước các thách thức nội tại và ngoại lực. Đảng không chỉ phải đối mặt với nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ mà còn phải đứng vững trước sự chống phá từ các thế lực thù địch. Sức chiến đấu mạnh mẽ được thể hiện ở sự đoàn kết nội bộ, tính kỷ luật cao và khả năng hành động đồng bộ của từng tổ chức đảng. Mỗi đảng viên, cán bộ cần không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân.
Để hiện thực hóa tinh thần “Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả” - kim chỉ nam cho việc cải cách và đổi mới năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức của Đảng và Nhà nước, chúng ta cần làm rõ nội dung trọng tâm và áp dụng các phương pháp cụ thể trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện. Đây không chỉ là một yêu cầu về cải cách bộ máy, mà còn là nguyên tắc cốt lõi nhằm tối ưu hóa tổ chức bộ máy, bảo đảm sự gọn nhẹ nhưng vẫn giữ được sức mạnh toàn diện, từ đó nâng cao hiệu quả trong mọi hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước để bước vào kỷ nguyên mới.
Tinh thần “Tinh-Gọn” đề cao việc tổ chức bộ máy một cách khoa học, hợp lý, loại bỏ những đầu mối, tầng nấc trung gian không cần thiết, giảm thiểu tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Một tổ chức tinh gọn giúp cải thiện khả năng ra quyết định, giảm bớt thủ tục hành chính, đồng thời tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đối với hệ thống chính trị, tinh gọn không chỉ là sắp xếp lại cơ cấu mà còn là cải cách mạnh mẽ về tư duy và phương pháp làm việc. Bộ máy tinh gọn tạo điều kiện để các cấp lãnh đạo tập trung vào nhiệm vụ chiến lược, thúc đẩy sự sáng tạo, hiệu quả trong chỉ đạo và thực thi.
Tinh thần “Mạnh” chú trọng sức mạnh nội tại của bộ máy tổ chức, được xây dựng từ chất lượng của đội ngũ cán bộ và sự thống nhất trong hành động. Một tổ chức mạnh mẽ phải có đội ngũ nhân sự tinh hoa, được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Sự mạnh mẽ còn thể hiện ở khả năng thích ứng nhanh trước các thay đổi, giải quyết hiệu quả các thách thức và tận dụng tốt các cơ hội phát triển. Đây là yếu tố quan trọng để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự ổn định và phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Tinh thần “Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả” hướng đến mục tiêu cao nhất là mang lại giá trị thực tiễn rõ rệt, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế-xã hội và cải thiện toàn diện chất lượng đời sống nhân dân. Hiệu năng thể hiện ở khả năng vận hành trơn tru, nhịp nhàng của hệ thống, tối ưu hóa các nguồn lực để đạt kết quả tốt nhất; hiệu lực là khả năng thực thi các quyết định một cách khoa học, nhanh chóng, đúng mục tiêu; còn hiệu quả chính là thước đo kết quả thực tế đạt được. Để hiện thực hóa các giá trị này, cần áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, đổi mới công tác giám sát và kiểm tra, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo và không ngừng cải tiến quy trình hoạt động của tổ chức.
Những đòi hỏi, thách thức từ thực tiễn
Trải qua hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền đối với hệ thống chính trị mà còn đóng vai trò trung tâm trong việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, cùng với những khó khăn, thách thức nội tại đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay
Trong những năm qua, tổ chức bộ máy của Đảng đã có những cải cách mạnh mẽ hướng tới tinh gọn, hiệu quả, khoa học hơn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước phù hợp tình hình thực tiễn. Các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương được sắp xếp lại theo hướng giảm bớt tầng nấc trung gian, loại bỏ các khâu chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, kịp thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy. Tuy nhiên, một số cơ quan còn cồng kềnh, hoạt động chồng chéo, làm giảm hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Tại một số địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan Đảng và chính quyền chưa thật sự chặt chẽ, dẫn đến tình trạng xử lý công việc chậm trễ, không đồng bộ, vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa nắm bắt được yêu cầu đổi mới và hội nhập, thậm chí còn có trường hợp vi phạm đạo đức, pháp luật, làm giảm uy tín của Đảng.
Thứ hai, về hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay
Hiệu quả lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nét qua những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã và đang duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực lan tỏa trong xã hội. Hàng loạt vụ án lớn đã được xử lý nghiêm minh, nhiều cán bộ cấp cao bị kỷ luật, truy tố, cho thấy quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần sớm được khắc phục để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng: Một số chủ trương, nghị quyết quan trọng của Đảng triển khai xuống cơ sở còn chậm, thiếu sự đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong khâu tổ chức thực hiện. Việc xây dựng chính sách ở một số lĩnh vực chưa thật sự bám sát thực tiễn, gây ra tình trạng lãng phí nguồn lực hoặc không đạt được kết quả như kỳ vọng.
Thứ ba, về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền, là lực lượng duy nhất tiếp nối vai trò và sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc dự báo và ứng phó với các tình huống phức tạp, đặc biệt là những vấn đề về an ninh phi truyền thống, còn gặp nhiều khó khăn; một số nơi vẫn còn tồn tại tình trạng xa rời quần chúng, thiếu lắng nghe ý kiến từ nhân dân, dẫn đến sự giảm sút niềm tin ở một bộ phận người dân.
Ngoài ra, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đang trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Việc rèn luyện đạo đức, tư tưởng và năng lực chuyên môn cho cán bộ cần được quan tâm hơn nữa, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang tích lũy đủ thế và lực khẩn trương bước vào kỷ nguyên mới./.