Chính sách về phát triển KTTN không ngừng được hoàn thiện
Kinh tế tư nhân ở Việt Nam vốn dĩ đã tồn tại từ trước cách mạng và trong suốt chiều dài lịch sử. Năm 1953, trong bối cảnh đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh, trong bài viết về Thành phần kinh tế và Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ đăng ở Chuyên mục “Thường thức chính trị” trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định kinh tế tư nhân "là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà".
Tuy nhiên, chỉ đến khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI của Đảng (1986), khu vực này mới chính thức được thừa nhận và từng bước phát triển. Từ chỗ là một bộ phận không chính thức, kinh tế tư nhân đã trở thành một thành phần trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của KTTN gắn liền với quá trình điều chỉnh tư duy và chính sách của Đảng, Nhà nước. Từ khi tiến hành đổi mới (1986), quan điểm của Đảng về KTTN ngày càng cởi mở và nhất quán. Đại hội VI thừa nhận sự tồn tại của KTTN trong nền kinh tế nhiều thành phần. Từ Đại hội VII đến XIII, Đảng từng bước mở rộng quyền phát triển, xác định vai trò ngày càng quan trọng của KTTN, đến nay chính thức coi đây là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.
Song song với đó, Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về phát triển về kinh tế tư nhân, nổi bật là: Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 khoá IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN”; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khoá XII về “Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”.
Pháp luật và chính sách về KTTN cũng không ngừng được hoàn thiện. Từ năm 2017 đến nay, hàng chục luật, hàng nghìn nghị định và nhiều hiệp định thương mại tự do đã được ban hành nhằm tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân. Chính phủ cũng triển khai nhiều chương trình hành động và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp (đặc biệt trong giai đoạn khó khăn do Covid-19), đồng thời chú trọng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, trong gần 40 năm qua, KTTN đã không ngừng mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động. Từ 5 nghìn doanh nghiệp đầu những năm 1990, đến nay cả nước có gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp khoảng 50% GDP, sử dụng trên 80% lực lượng lao động và tạo ra hơn 30% nguồn thu ngân sách nhà nước.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực này luôn cao hơn bình quân chung của nền kinh tế, đặc biệt là giai đoạn từ 2016 đến 2024, đạt trung bình 6-8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế.
KTTN cũng là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, với khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp vào năm 2024. Nhiều tập đoàn tư nhân lớn mạnh vươn ra khu vực và quốc tế, như: VinGroup, Masan, Thaco, Hoà Phát, FPT, Vinamilk….
Không chỉ đóng góp về kinh tế, khu vực tư nhân còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội: tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, doanh nghiệp tư nhân chính là “cầu nối” quan trọng giúp Việt Nam bắt kịp xu thế toàn cầu, tham gia chuỗi giá trị sản xuất, thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, KTTN vẫn chưa phát huy hết tiềm năng vốn có. Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ còn quá cao; năng suất lao động, khả năng quản trị, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận vốn, đất đai còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, tình trạng rút lui khỏi thị trường tăng nhanh, phản ánh những khó khăn nội tại và môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi. Một bộ phận doanh nghiệp còn thiếu minh bạch, chưa tuân thủ pháp luật, thậm chí vi phạm đạo đức kinh doanh. Những tồn tại này, nếu không được giải quyết căn cơ, sẽ là lực cản lớn trong việc đưa KTTN trở thành động lực chính của nền kinh tế.
Nghị quyết 68 - Cú hích thể chế cho kinh tế tư nhân cất cánh
Bước vào giai đoạn phát triển mới, việc khơi thông mọi nguồn lực, nhất là khu vực KTTN, trở thành yêu cầu tất yếu. Trong bối cảnh mới đầy biến động và cạnh tranh, việc xác định rõ vai trò của KTTN không chỉ là lựa chọn chiến lược, mà còn là đòi hỏi mang tính sống còn đối với nền kinh tế.
Nhận thức được điều này, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW (Nghị quyết 68). Đây là văn kiện quan trọng có ý nghĩa đột phá, đánh dấu bước ngoặt về tư duy và hành động trong phát triển KTTN.
Nghị quyết 68 khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”. Đồng thời, nghị quyết yêu cầu xóa bỏ định kiến, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch; lấy doanh nghiệp làm trung tâm, doanh nhân làm lực lượng nòng cốt để thực hiện công cuộc phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế.
Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, cả nước phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp 55-58% GDP, giải quyết 84%-85% việc làm xã hội. Tầm nhìn đến 2045 là xây dựng khu vực KTTN phát triển nhanh, bền vững, cạnh tranh toàn cầu và thực sự trở thành trụ cột của nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Điều quan trọng hơn cả là Nghị quyết 68 không dừng lại ở định hướng, mà đưa ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp rõ ràng, khả thi. Trước hết, đó là đổi mới tư duy trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN. Tiếp theo là cải cách mạnh mẽ thể chế, xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, loại bỏ các điều kiện kinh doanh không cần thiết, bảo đảm quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng.
Đặc biệt, Nghị quyết 68 nhấn mạnh hỗ trợ KTTN tiếp cận hiệu quả các nguồn lực thiết yếu: đất đai, tín dụng, nhân lực chất lượng cao. Nhà nước sẽ ưu tiên dành quỹ đất trong các khu công nghiệp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ lãi suất tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; mở rộng các chương trình đào tạo giám đốc điều hành, kỹ năng số, STEM...
Một điểm nhấn khác của nghị quyết là thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh doanh bền vững. Chính sách tài chính được thiết kế theo hướng ưu đãi vượt trội: doanh nghiệp có thể trừ 200% chi phí nghiên cứu - phát triển khi tính thuế thu nhập, được trích tối đa 20% thu nhập để lập quỹ khoa học - công nghệ.
Không chỉ quan tâm đến doanh nghiệp lớn, nghị quyết còn đưa ra cơ chế cụ thể hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành doanh nghiệp; cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán, tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ - những “mắt xích nhỏ” nhưng có vai trò đặc biệt trong cấu trúc nền kinh tế.
Nghị quyết cũng đề cao vai trò doanh nhân trong xã hội hiện đại. Doanh nhân không chỉ là người làm giàu cho bản thân, mà còn là lực lượng tiên phong đóng góp cho đất nước. Nhà nước sẽ tôn vinh, khen thưởng doanh nhân tiêu biểu, thúc đẩy đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nhân gắn với bản sắc dân tộc và chuẩn mực quốc tế.
Sự ra đời của Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng, mà còn thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc khơi thông nguồn lực, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển vượt bậc. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Nghị quyết 68 “đặt nền móng cho sự chuyển biến toàn diện về chính sách phát triển kinh tế tư nhân: từ việc “thừa nhận” sang “bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy”, từ “bổ trợ” sang “dẫn dắt phát triển”. Đây là sự lựa chọn chiến lược đúng đắn, cấp thiết, mang tầm nhìn dài hạn, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường vào giữa thế kỷ XXI”.
Các chuyên gia, học giả đánh giá cao giá trị thực tiễn và tính khả thi của Nghị quyết 68. Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu nhận định đây không chỉ là một văn bản chính sách, mà là một tuyên ngôn mạnh mẽ về vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. PGS.TS Đinh Xuân Thảo nhấn mạnh, Nghị quyết 68 mang dấu ấn tư duy pháp lý và quản trị mới, mở đường cho những cải cách thể chế sâu rộng. Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Hồ Minh Hoàng, Chủ tịch Tập đoàn Đèo Cả khẳng định đây là văn kiện mang tính kiến tạo, giải quyết những bất cập cũ, xác lập nhiệm vụ hiện tại và góp phần kiến tạo tương lai của dân tộc. Đồng thời, các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng những chính sách cụ thể như bỏ thuế khoán cho hộ kinh doanh, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp nhỏ và khởi nghiệp sáng tạo... là những bước đột phá có thể tạo chuyển biến thực chất, lan tỏa niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp tư nhân.
Có thể thấy, Nghị quyết 68 ra đời đúng lúc, như một luồng gió mới thổi bùng lên niềm tin và khát vọng phát triển trong cộng đồng doanh nghiệp tư nhân. Với quyết tâm chính trị cao, thể chế minh bạch, chính sách vượt trội, cùng sự đồng hành từ Nhà nước và toàn xã hội, KTTN hoàn toàn có thể trở thành “ngọn cờ đầu” trong sự nghiệp đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến vững trên con đường hội nhập và phát triển bền vững./.
Kinh tế tư nhân ở Việt Nam vốn dĩ đã tồn tại từ trước cách mạng và trong suốt chiều dài lịch sử. Năm 1953, trong bối cảnh đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh, trong bài viết về Thành phần kinh tế và Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ đăng ở Chuyên mục “Thường thức chính trị” trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định kinh tế tư nhân "là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà".
Tuy nhiên, chỉ đến khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI của Đảng (1986), khu vực này mới chính thức được thừa nhận và từng bước phát triển. Từ chỗ là một bộ phận không chính thức, kinh tế tư nhân đã trở thành một thành phần trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự phát triển của KTTN gắn liền với quá trình điều chỉnh tư duy và chính sách của Đảng, Nhà nước. Từ khi tiến hành đổi mới (1986), quan điểm của Đảng về KTTN ngày càng cởi mở và nhất quán. Đại hội VI thừa nhận sự tồn tại của KTTN trong nền kinh tế nhiều thành phần. Từ Đại hội VII đến XIII, Đảng từng bước mở rộng quyền phát triển, xác định vai trò ngày càng quan trọng của KTTN, đến nay chính thức coi đây là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.
Song song với đó, Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về phát triển về kinh tế tư nhân, nổi bật là: Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 khoá IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN”; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khoá XII về “Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”.
Pháp luật và chính sách về KTTN cũng không ngừng được hoàn thiện. Từ năm 2017 đến nay, hàng chục luật, hàng nghìn nghị định và nhiều hiệp định thương mại tự do đã được ban hành nhằm tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân. Chính phủ cũng triển khai nhiều chương trình hành động và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp (đặc biệt trong giai đoạn khó khăn do Covid-19), đồng thời chú trọng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, trong gần 40 năm qua, KTTN đã không ngừng mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động. Từ 5 nghìn doanh nghiệp đầu những năm 1990, đến nay cả nước có gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp khoảng 50% GDP, sử dụng trên 80% lực lượng lao động và tạo ra hơn 30% nguồn thu ngân sách nhà nước.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực này luôn cao hơn bình quân chung của nền kinh tế, đặc biệt là giai đoạn từ 2016 đến 2024, đạt trung bình 6-8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế.
KTTN cũng là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, với khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp vào năm 2024. Nhiều tập đoàn tư nhân lớn mạnh vươn ra khu vực và quốc tế, như: VinGroup, Masan, Thaco, Hoà Phát, FPT, Vinamilk….
Không chỉ đóng góp về kinh tế, khu vực tư nhân còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội: tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, doanh nghiệp tư nhân chính là “cầu nối” quan trọng giúp Việt Nam bắt kịp xu thế toàn cầu, tham gia chuỗi giá trị sản xuất, thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, KTTN vẫn chưa phát huy hết tiềm năng vốn có. Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ còn quá cao; năng suất lao động, khả năng quản trị, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận vốn, đất đai còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, tình trạng rút lui khỏi thị trường tăng nhanh, phản ánh những khó khăn nội tại và môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi. Một bộ phận doanh nghiệp còn thiếu minh bạch, chưa tuân thủ pháp luật, thậm chí vi phạm đạo đức kinh doanh. Những tồn tại này, nếu không được giải quyết căn cơ, sẽ là lực cản lớn trong việc đưa KTTN trở thành động lực chính của nền kinh tế.
Nghị quyết 68 - Cú hích thể chế cho kinh tế tư nhân cất cánh
Bước vào giai đoạn phát triển mới, việc khơi thông mọi nguồn lực, nhất là khu vực KTTN, trở thành yêu cầu tất yếu. Trong bối cảnh mới đầy biến động và cạnh tranh, việc xác định rõ vai trò của KTTN không chỉ là lựa chọn chiến lược, mà còn là đòi hỏi mang tính sống còn đối với nền kinh tế.
Nhận thức được điều này, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW (Nghị quyết 68). Đây là văn kiện quan trọng có ý nghĩa đột phá, đánh dấu bước ngoặt về tư duy và hành động trong phát triển KTTN.
Nghị quyết 68 khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”. Đồng thời, nghị quyết yêu cầu xóa bỏ định kiến, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch; lấy doanh nghiệp làm trung tâm, doanh nhân làm lực lượng nòng cốt để thực hiện công cuộc phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế.
Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, cả nước phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp 55-58% GDP, giải quyết 84%-85% việc làm xã hội. Tầm nhìn đến 2045 là xây dựng khu vực KTTN phát triển nhanh, bền vững, cạnh tranh toàn cầu và thực sự trở thành trụ cột của nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Điều quan trọng hơn cả là Nghị quyết 68 không dừng lại ở định hướng, mà đưa ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp rõ ràng, khả thi. Trước hết, đó là đổi mới tư duy trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN. Tiếp theo là cải cách mạnh mẽ thể chế, xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, loại bỏ các điều kiện kinh doanh không cần thiết, bảo đảm quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng.
Đặc biệt, Nghị quyết 68 nhấn mạnh hỗ trợ KTTN tiếp cận hiệu quả các nguồn lực thiết yếu: đất đai, tín dụng, nhân lực chất lượng cao. Nhà nước sẽ ưu tiên dành quỹ đất trong các khu công nghiệp cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ lãi suất tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; mở rộng các chương trình đào tạo giám đốc điều hành, kỹ năng số, STEM...
Một điểm nhấn khác của nghị quyết là thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh doanh bền vững. Chính sách tài chính được thiết kế theo hướng ưu đãi vượt trội: doanh nghiệp có thể trừ 200% chi phí nghiên cứu - phát triển khi tính thuế thu nhập, được trích tối đa 20% thu nhập để lập quỹ khoa học - công nghệ.
Không chỉ quan tâm đến doanh nghiệp lớn, nghị quyết còn đưa ra cơ chế cụ thể hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành doanh nghiệp; cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán, tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ - những “mắt xích nhỏ” nhưng có vai trò đặc biệt trong cấu trúc nền kinh tế.
Nghị quyết cũng đề cao vai trò doanh nhân trong xã hội hiện đại. Doanh nhân không chỉ là người làm giàu cho bản thân, mà còn là lực lượng tiên phong đóng góp cho đất nước. Nhà nước sẽ tôn vinh, khen thưởng doanh nhân tiêu biểu, thúc đẩy đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nhân gắn với bản sắc dân tộc và chuẩn mực quốc tế.
Sự ra đời của Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng, mà còn thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc khơi thông nguồn lực, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển vượt bậc. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Nghị quyết 68 “đặt nền móng cho sự chuyển biến toàn diện về chính sách phát triển kinh tế tư nhân: từ việc “thừa nhận” sang “bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy”, từ “bổ trợ” sang “dẫn dắt phát triển”. Đây là sự lựa chọn chiến lược đúng đắn, cấp thiết, mang tầm nhìn dài hạn, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường vào giữa thế kỷ XXI”.
Các chuyên gia, học giả đánh giá cao giá trị thực tiễn và tính khả thi của Nghị quyết 68. Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu nhận định đây không chỉ là một văn bản chính sách, mà là một tuyên ngôn mạnh mẽ về vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. PGS.TS Đinh Xuân Thảo nhấn mạnh, Nghị quyết 68 mang dấu ấn tư duy pháp lý và quản trị mới, mở đường cho những cải cách thể chế sâu rộng. Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Hồ Minh Hoàng, Chủ tịch Tập đoàn Đèo Cả khẳng định đây là văn kiện mang tính kiến tạo, giải quyết những bất cập cũ, xác lập nhiệm vụ hiện tại và góp phần kiến tạo tương lai của dân tộc. Đồng thời, các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng những chính sách cụ thể như bỏ thuế khoán cho hộ kinh doanh, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp nhỏ và khởi nghiệp sáng tạo... là những bước đột phá có thể tạo chuyển biến thực chất, lan tỏa niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp tư nhân.
Có thể thấy, Nghị quyết 68 ra đời đúng lúc, như một luồng gió mới thổi bùng lên niềm tin và khát vọng phát triển trong cộng đồng doanh nghiệp tư nhân. Với quyết tâm chính trị cao, thể chế minh bạch, chính sách vượt trội, cùng sự đồng hành từ Nhà nước và toàn xã hội, KTTN hoàn toàn có thể trở thành “ngọn cờ đầu” trong sự nghiệp đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến vững trên con đường hội nhập và phát triển bền vững./.